Paris với văn hóa và nghệ thuật Paris

Paris với văn học

Bí mật thành Paris của Eugène Sue

Từ rất lâu, Paris đã là nguồn cảm hứng cho các nhà văn. Vào thế kỷ 15, François Villon đã viết về Paris trong tác phẩm chính của mình: Le Testament. Trong thế kỷ 17thế kỷ 18, miêu tả một Paris hiện thực cũng thu hút các tác giả. Thế kỷ 19, các nhà văn Pháp có những bước tiến trong việc miêu tả thành phố với phong cách mang tính chính xác hơn. Dưới nền Quân chủ tháng bảy, Honoré de Balzac phác họa bức tranh chi tiết và hiện đại về xã hội Pháp trong bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời (La Comédie Humaine). Gồm hơn 100 tác phẩm, gồm cả tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận... Tấn trò đời với vô số các nhân vật ở Paris, là một bức tranh toàn cảnh miêu tả xã hội Pháp thế kỷ 19. Alexandre Dumas với Ba người lính ngự lâm cũng cho thấy một Paris khác trong lịch sử.

Trong khi Balzac quan tâm tới các tầng lớp cao của xã hội thì một vài tác giả khác lại chú ý đến tầng lớp bình dân của Paris. Bí mật thành Paris (Les Mystères de Paris) của Eugène Sue với những miêu tả về tầng lớn dưới đáy xã hội đăng từng kỳ trên báo từ 1842 tới 1843 đã rất thành công. Hai mươi năm sau đó, một trong những tiểu thuyết gia lớn nhất của Paris, Victor Hugo đã xuất bản Những người khốn khổ (Les Misérables), tác phẩm đồ sộ miêu tả cuộc sống nhiều mặt của thành phố, khiến Paris trở thành cổ điển. Một tiểu thuyết khác của Victor Hugo, Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre-Dame de Paris) tiếp tục giúp độc giả khắp thế giới biết đến nhà thờ nổi tiếng của thành phố.

Thành phố Paris sau những cải tạo của Haussmann được Émile Zola miêu tả trong bộ Les Rougon-Macquart với những tác phẩm Le Ventre de Paris, Nana, Au Bonheur des Dames. Đầu thế kỷ 20, nhà hát Opéra Garnier của Paris trở thành bối cảnh chính của tiểu thuyết Bóng ma trong nhà hát (Le Fantôme de l'Opéra) của Gaston Leroux. Tác phẩm này đã có rất nhiều chuyển thể, trong đó nổi tiếng như vở nhạc kịch The Phantom of the Opera của Andrew Lloyd Webber trên sân khấu Broadway năm 1986, rồi bộ phim cùng tên năm 2004. Trong những năm 1960, các nhà văn biến Paris thành một thành phố hoang đường, đôi khi khôi hài và nực cười như trong Zazie dans le métro của Raymond Queneau. Hay một Paris đầy ắp những kỷ niệm trong Je me souviens của Georges Perec. Nhà văn Colombia Gabriel García Márquez trong truyện ngắn Dấu máu em trên tuyết (El Rastro de tu Sangre en la Nieve) cũng cho thấy cái nhìn của một người nước ngoài cô đơn giữa Paris về thành phố này.

Paris với hội họa và điêu khắc

Phố Paris, trời mưa, Gustave Caillebotte 1877

Là thành phố quan trọng bậc nhất của hội họa, Paris không chỉ là nơi khai sinh của những trường phái Ấn tượng, Lập thể... mà nó còn là đề tài của nhiều họa sĩ. Cho tới Chiến tranh tôn giáo vào cuối thế kỷ 16, không thấy tác phẩm nào thực sự về Paris. Dưới thời Henri IVLouis XIII, thành phố được Jacques Callot cùng các họa sĩ Hà Lan De VerwerZeeman thể hiện trên tranh, đặc biệt là hai bên bờ sông Seine. Cung điện Louvre cũng trở thành một đề tài rất được ưa thích vào thế kỷ 17.

Phải đến thế kỷ 19, đời sống thường nhật của Paris mới thu hút các họa sĩ. Jean-Baptiste Camille Corot dựng giá vẽ bên bờ sông Seine; Claude Monet tái hiện không khí mờ hơi nước của nhà ga Saint-Lazare; Auguste Renoir miêu tả cuộc sống khu phố Montmartre với các quán Moulin de la galette, Moulin Rouge; Camille Pissarro vẽ cầu Pont NeufAlfred Sisley với cảnh đảo Île Saint-Louis. Tiếp đó, vào cuối thế kỷ, Georges Seurat, Paul Gauguin, Paul CézanneVan Gogh tiếp tục tái hiện Paris trong các tác phẩm của mình. Còn Toulouse-Lautrec bị thu hút bởi các quán cabaret của thành phố.

Vào thế kỷ 20, Albert MarquetMaurice Utrillo vẽ những khu phố ít may mắn của Paris. Henri Matisse, Maurice de VlaminckAndré Derain làm việc trong tòa nhà Bateau-LavoirMontmartre, còn Fernand Léger, Amedeo Modigliani, Marc Chagall, Ossip ZadkineChaïm Soutine sáng tác trong xưởng vẽ La RucheMontparnasse. Đó chính là thời kỳ hoàng kim của trường phái Paris.

Về điêu khắc, ở Paris thế kỷ 19 có thể kể tới François Rude với bức phù điêu La Marseillaise trên Khải Hoàn Môn, hay Jean-Baptiste Carpeaux với đài phun nước tại Đài thiên văn. Tiếp đó, vô số các nghệ sĩ danh tiếng với những tác phẩm của mình đã trang hoàng cho Paris: Auguste Rodin, Aimé-Jules Dalou tại vườn Luxembourgquảng trường Nation, Antoine BourdellePalais de Tokyo, Aristide Maillolvườn TuileriesPaul Landowski với tượng Thánh Genevièvecầu Tournelle. Tân nghệ thuật cũng trang trí cho một số lối vào tàu điện ngầm của Paris nhờ Hector Guimard. Nghệ thuật đương đại hiện diện ở Palais-Royal với các cây cột của nhà điêu khắc Daniel Buren hay ở Trung tâm Pompidou với đài phun nước Stravinski của Jean TinguelyNiki de Saint Phalle.

Paris với âm nhạc

Truyền thống âm nhạc ở Paris bắt từ thời Phục Hưng. Cuối thế kỷ 12 trường phái âm nhạc đa âm điệu Notre-Dame ra đời. Dưới thời François I, công nghệ in ấn mới xuất hiện đã giúp các ca khúc trở nên phổ biến. Thời Louis XIV, nhiều vở opera lớn được giới thiệu ở Paris. Nhạc sĩ gốc Ý Jean-Baptiste Lully tới sống tại Paris và trở thành người phục trách âm nhạc của triều đình. Các vở ba lê của Lully được trình diễn tại cung điện Louvre từ năm 1655. Thế kỷ 18, Jean-Philippe Rameau làm nổi bật vai trò của dàn nhạc trong các vở opera-ba lê. Lịch sử Pháp cũng ảnh hưởng tới âm nhạc của Paris. Nhiều bài hát đại chúng được sáng tác trong thời kỳ Cách mạng Pháp, như Carmagnole trở thành ca khúc biểu tượng cho những người cách mạng vào năm 1792. Vào thế kỷ 19, Paris trở thành thủ đô của âm nhạc, các nghệ sĩ nổi tiếng nước ngoài đã tìm tới đây. Âm nhạc tiến đến Chủ nghĩa lãng mạn với những nhạc sĩ như Frédéric Chopin, Hector Berlioz hay Charles Gounod.

Âm nhạc cho khiêu vũ của Paris trong thế kỷ 19 nổi tiếng khắp thế giới. Được chơi ở các lễ hội Carnaval Paris, nó còn ảnh hưởng đến âm nhạc truyền thống và các cả nhạc sĩ nước ngoài. Trong số đó có thể kể đến nhạc sĩ người Áo Johann Strauss I, người đã tới Pháp vào 1837. Sau năm 1870, Paul Dukas, Camille Saint-Saëns hay Georges Bizet đã làm nước Pháp trở thành bậc thầy của âm nhạc ba lê. Những cá tính dân tộc trong âm nhạc trở lại với Maurice RavelClaude Debussy - các nhạc sĩ ấn tượng. Cuối thế kỷ 19 cũng là thời kỳ của các ca sĩ ứng tác và quán cabaret Le Chat noirMontmartre là một địa điểm biểu tượng. Đầu thập niên 1880, " la divine " Sarah Bernhardt, người được xem như nữ nghệ sĩ nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử nghệ thuật[143], đã từ Paris đi lưu diễn khắp thế giới, tại Luân Đôn, Hoa KỳNga.

Trong Thế kỷ 20, những bài hát của Édith Piaf - người mang biệt danh " cô bé của Paris " - và cả Maurice Chevalier trở thành các ca khúc phổ biến ở Paris và còn được biết đến trên toàn thế giới. Nền ca nhạc Pháp còn rất nhiều những bài hát về Paris.

Paris với điện ảnh

Opéra Garnier năm 1900, bối cảnh cho Bóng ma trong nhà hát

Với các công trình nổi tiếng và sự lãng mạn, Paris là một trong những thành phố được đưa lên màn ảnh nhiều nhất. Ngoài các bộ phim quan trọng của điện ảnh Pháp, những đạo diễn thế giới cũng chọn Paris làm bối cảnh cho những tác phẩm của mình.

Trong danh sách dài những bộ phim Pháp quay ở đây, có thể kể đến một vài tác phẩm lớn đã trở thành kinh điển. Hôtel du Nord (1938) là khung cảnh cho lời thoại nổi tiếng của Arletty: " Atmosphère, atmosphère, est-ce que j'ai une gueule d'atmosphère? ". Tuy bộ phim được thực hiện trong trường quay, nhưng khách sạn nhỏ bên con kênh Saint-Martin vẫn trở thành địa điểm yêu thích của những khán giả điện ảnh. La Traversée de Paris (1956) cùng Le Dernier Métro (1980) gợi lại những hiện thực về thời gian thành phố bị Đức Quốc xã chiếm đóng năm 1943, và Paris brûle t-il? (1966) về giải phóng Paris vào tháng 8 năm 1944. Đầu thập niên 2000, Le Fabuleux Destin d'Amélie Poulain (2001) là câu quận hoang tưởng trong một Paris huyền thoại và vĩnh hằng. Bộ phim này giành được những thành công quốc tế và khiến nhiều người yêu điện ảnh tới Montmartre để tìm kiếm những địa điểm tượng trưng của các cảnh quay.

Điện ảnh thế giới cũng ghi dấu ấn với những bộ phim về Paris. Năm 1951, bộ phim ca nhạc An American in Paris, nói về một họa sĩ trẻ ở Paris, đã thành công rực rỡ, đạt giải Oscar cho phim hay nhất. Năm 1957, Tình yêu ban chiều (Love in the Afternoon) mở đầu với những cảnh Paris tràn ngập các đôi yêu đương và Audrey Hepburn gặp gỡ Gary Cooper tại khách sạn Ritz. Trong Last Tango in Paris năm 1972, Marlon Brando trong vai một người đàn ông trung niên gặp cô gái trẻ Maria Schneider tại một căn phòng sang trọng ở quận 16. Cuối thế kỷ 20 là bộ phim ca nhạc Everyone Says I Love You (1996) của đạo diễn Woody Allen.

Đầu những năm 2000, trong Moulin Rouge! (2001), Nicole Kidman vào vai cô ca sĩ Satine của quán Moulin Rouge yêu chàng nhà văn Christian do Ewan McGregor diễn. Năm 2004, Bóng ma trong nhà hát (The Phantom of the Opera) chuyển thể từ tiểu thuyết của Gaston Leroux lại giới thiệu một Paris của âm nhạc và sân khấu thời Belle Époque. Da Vinci code (2006) tiếp tục chọn Paris làm bối cảnh cho bộ phim. Mới nhất năm 2007, với vị trí kinh đô của ẩm thực, Paris lại xuất hiện trong bộ phim hoạt hình Mỹ Chú chuột đầu bếp (Ratatouille). Không chỉ những tác phẩm lãng mạn, cảnh Paris với tháp Eiffel bị phá hủy thường xuyên được sử dụng trong các phim khoa học viễn tưởng.

Bên cạnh điện ảnh, các công trình nổi tiếng và đời sống thường nhật của Paris là đề tài sáng tác của nhiều nhiếp ảnh gia danh tiếng. Bắt đầu từ Eugène Atget ở cuối thế kỷ 19[144], tiếp đó tới Robert Doisneau giữa thế kỷ 20, người đã chụp vô số các bức ảnh về Paris, trong đó nổi tiếng hơn cả là Le Baiser de l'Hôtel de Ville (Nụ hôn trước tòa thị chính)[145].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Paris http://www.bbc.com/news/world-europe-30765824 http://www.cnn.com/2015/01/21/europe/2015-paris-te... http://www.globalpropertyguide.com/most-expensive-... http://www.lechotouristique.com/article/page_artic... http://www.meteofrance.com/climat/france http://www.meteofrance.com/climat/france/paris/751... http://www.nybooks.com/articles/20151 http://www.parisinfo.com/uploads/d1//0706_tp_table... http://www.ukmediacentre.pwc.com/imagelibrary/down... http://www.knightfrank.es/es/prensa/20070523/Wealt...